Thứ Bảy ngày 04 tháng 05 năm 2019: TAM LUẬN TÔNG Hay Là Tánh Không Tông

MƯỜI TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA

8.- TAM LUẬN TÔNG
Hay Là Tánh Không Tông

I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔNG

Tông này căn cứ vào ba bộ luận sau đây mà thành lập, nên gọi là Tam Luận tông.

1.- Bộ Trung Luận, gồm có 4 quyển, do Ngài Bồ-tát Long Thọ làm ra, mục đích chính để phá chấp của Tiểu Thừa và kèm một phần phụ đả phá sai lầm của ngoại đạo.

2.- Bộ Bách Luận, gồm có hai quyển do Ngài Bồ-tát Đề Bà làm ra, mục đích chính là phá chấp của ngoại đạo và kèm một phần phụ phá chấp của Tiểu Thừa.

3.- Bộ Thập Nhị Môn Luận, gồm có một quyển, cũng do ngài Long Thọ làm ra, mục đích phá cả Tiểu Thừa và ngoại đạo.

Tóm lại, ba bộ luận trên đây, đều phá sự thiên chấp sai lầm của Tiểu Thừa và ngoại đạo và mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của Đại Thừa.

Tông này được thịnh hành ở Trung Hoa trong đời Dao Tần do công đức hoằng dương của ngài Cưu Ma La Thập, và trong đời Đường do công đức của ngài Đại sư Gia Tường.

 

II.- TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

Như chúng ta đã thấy trong nội dung của ba Bộ luận căn bản nói trên, chủ trương của tông này là phá các điều tà chấp, nêu bày chánh lý.

Theo Tam luận tông, là chấp có bốn loại:

  1. Tà chấp của ngoại đạo: ngoại đạo tức là những học phái hay tôn giáo khác với Đạo Phật. Ngoại đạo vì không thấu rõ lý ngã không và pháp không, nên theo chấp chặt tà kiến, như tà nhơn, tà quả, không nhơn mà có quả, có nhơn mà không quả…những cái chấp nầy cần phải đả phá.
  2. Chấp trước của Tiểu Thừa Tỳ Đàm Tông: Tiểu Thừa Tỳ Đàm Tông tức là Câu Xá Tông. Tông này chủ trương lý ngã không, pháp hữu, nghĩa là cho rằng cái ngã nơi thân người là không có, nhưng các pháp là có. Quan niệm sai lầm về pháp hữu ấy cần phải phá trừ.
  3. Chấp trước của Thành Thật Tông: Tông này, tuy chủ trương ngã pháp đều không, nhưng lại chấp cái “không” ấy là thật “có” (thật có một cái không), chứ không biết rằng cái “không ” ấy cũng không hoàn toàn là không, cho nên cần phải phá trừ.
  4. Chấp trước của người tu về Đại thừa: Người tu về Đại Thừa không còn những chấp trước mê lầm về ngã, pháp của ngoại đạo và Tiểu Thừa, đã đoạn trừ những thành kiến chấp có, chấp không, chấp đoạn, chấp thường, nhưng còn có một số người ôm chặt cái sở đắc của mìmh, nghe nói “có” thì sa vào có, nghe nói “không ” thì trệ vào không, nghe nói “trung đạo” thì chấp trước về trung đạo. Cho nên cần phải phá trừ những chấp trước ấy.

Có người hỏi: Tam Luận Tông chủ trương phá tà như trên, có thể gọi là đầy đủ lắm, nhưng còn phần hiển chánh thì như thế nào?

– Xin thưa: Phá hết tà, tức là hiển chánh. Phá cũng tức là lập. Trừ mê tức là ngộ. Như vậy tà chấp đã bị phá, thời chánh lý tự bày, ngoài sự phá tà, không có chánh lý nào riêng nữa.

Trong bộ “Tam Luận Huyền Nghĩa” có nói: Sự phá tà hiển chánh phân làm bốn loại:

  1. Phá mà không thâu, nghĩa là trước một đối thủ nói không hợp đạo, thì chỉ phá mà không thâu.
  2. Thâu mà không phá, nghĩa là đối với người chủ trương hợp với chân lý thì chỉ cần thâu mà không phá.
  3. Cũng phá mà cũng thâu, nghĩa là đối với người học đạo mà còn đầy lòng mê chấp, thì phải phá trừ chỗ mê chấp và thâu lại giáo nghĩa mà họ đã hiểu lầm.
  4. Không thâu mà cũng không phá, đây là trường hợp khi đã tiêu trừ ba loại nói trên, quy về một chơn thật tướng: đến đây thì đã xa lìa nói phô, bặt dứt niệm lự, không thể nói rằng phá, không thể nói rằng thâu.

Chủ trương phá phá tà hiển chánh trên này có thể cô đọng trong bốn chữ sau đây: “Trung Đạo Bát Bất”.

Trung đạo tức là đao lý viên dung, cũng gọi là đệ nhứt nghĩa đế, nghĩa là cái chơn lý cùng tột, không gì hơn.

Bát bất tức là tám cái “Bất” (chẳng phải):

Bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất. Hiểu rõ tám cái “Bất” ấy, tức là nhận chân được nghĩa lý của Trung đạo. Chúng ta hãy nghe bài kệ sau đây trong “Trung đạo” thì rõ:

Bất sinh, diệc bất diệt

Bất thường, diệc bất đoạn

Bất nhất, diệc bất dị

Bất lai, diệc bất xuất

Năng thuyết thị nhân duyên

Thiện diệt chư hý luận

Ngã khể thủ lễ Phật

Chư thuyết trung đệ nhất

Giảng rộng đoạn văn trên này, ông Phan Văn Hùm, trong quyển Phật Giáo Triết Học đã viết như sau:

“Nhất thiết vạn hữu trong hiện giới đều sinh diệt vô thường”. Sinh diệt vô thường như thế, nguyên là vì không có tự tánh, mà bởi nhân duyên mê vọng nên sinh ra giả hữu.

Thế tục vì vọng kiến, nên chấp lấy cái giả hữu đó. Chân trí thời phủ định giả hữu mà nhận thấy là không …siêu việt được tất cả hữu và vô là cái quan niệm tuyệt đối ấy, phải biết rằng chư pháp đều do nhân duyên sinh ra.

Chư pháp tuy là hữu nhưng mà là phi thường hữu. Hữu, mà phi thường hữu là giả hữu. Giả hữu tuy là hữu mà phi hữu. Hữu mà phi hữu, thời cùng với vô có khác gì? Cho nên chư pháp tuy là vạn hữu, nhưng uyển nhiên là không.

Lý thể của chân như, tuy là không tịch, bất sinh diệt, mà bởi nó sanh ra chư pháp, cho nên nó là căn của giả hữu. Đã là căn của giả hữu, thời mặc dù lý thể của chân như là không, thật ra nó là phi không. Như thế, chân như là không mà không thật là không cho nên cùng với hữu có khác gì? Vì thế, rốt lại, chân như tuy là không tịch, mà nó uyển nhiên là hữu.

Hữu, không, hai cái toàn nhiên cùng nhau hỗn hợp.

Trung đạo ra ngoài chỗ chấp hữu cùng chấp không.

III.- BA THỜI GIÁO LÝ

Trong phần tôn chỉ và giáo lý căn bản nói trên, chúng ta thấy Tam-luận tông bác tất cả các tông phái của Tiểu Thừa và một phần của Đại -thừa. Nhưng dù Tiểu Thừa hay Đại -thừa, cũng là dựa trên Giáo lý của Đức Phật cả. Vậy, bác các tông phái trong các đạo Phật, tức là gián tiếp, bác giáo lý của Phật chăng?

Thật ra, không phải thế. Tất cả lời dạy của Đức Phật chỉ có một chất chung là sự giải thoát, như tất cả nước đại dương chỉ có một mùi vị là mặn. Phật nói ra các pháp môn, đều để đối trị những phiền não của chúng sanh. Người lương y dõi tùy theo chứng bệnh mà cho thuốc, thuốc không cao cấp, lành bệnh là hay. Cũng thế, căn cơ chúng sanh không đồng nhau, cho nên pháp môn cũng tùy theo đó mà có sai biệt.

Theo Tam-Luận tông, thì giáo lý của Đức Phật chia làm ba thời kỳ:

-Thời kỳ thứ nhứt, tại vườn Lộc-Giả vì các bậc căn trí hẹp hòi, Phật nói pháp Tiểu Thừa, tâm cảnh đều có. Trong thời kỳ này vì cần phải phá cái chấp về tự tách, thần ngã của ngộ đạo, nên Phật nói “pháp duyên sanh”, xác định là thật có.

-Thời kỳ thứ hai, Phật vì các bậc căn trí bậc trung, nói “pháp tướng Đại -thừa”, chỉ rõ đạo lý Duy-thức “cảnh không tâm có” (thế giới hiện tượng không thật có nhưng tâm thức thật có). Cũng trong thời kỳ này, Phật lần hồi phá trừ chỗ chấp của Nhị-thừa về lý duyên sanh thật có, mà nói lý duyên sanh ấy chỉ là giả dối như tuồng có mà thôi, vì họ sợ về chỗ chơn không , nên phải để “giả hữu” lại để dìu dắt họ.

-Thời kỳ thứ ba, Phật vì các bậc thượng căn thượng trí nói ra giáo lý “vô tướng Đại -thừa “, biện bạch tâm cảnh đều không, một mực bình đẳng là chơn liễu nghĩa. Đến thời kỳ này mới thật là chỗ rốt ráo của Đại -thừa, chủ trương duyên sanh ấy tức là tánh không, một mực bình đẳng, viên dung cả hai đế (chơn đế, tục đế) không ngại.

Tóm lại, thời ký thứ nhất, phá trừ ngoại đạo, chỉ dạy Tiểu-thừa với giáo lý tâm cảnh đều có. Thời kỳ thứ hai, thông cả Tiểu-thừa và một phần của Đại -thừa, (Tam thừa) với giáo lý cảnh không, tâm có. Thời kỳ thứ ba, chỉ có Nhất thừa, với giáo lý tâm cảnh đều không, nhưng cái không đây tức là chơn “chơn không, diệu hữu”.

 

IV.- PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

Chúng ta đã thấy ở các phần ở trên, chủ trương của Tam-luận tông là phá tà, và do chỗ phá tà ấy là hiển chánh. Vậy thì phương pháp tu hành của tông này là làm sao nhận rõ được những chỗ sai lầm chấp trước của ngoại đạo và các tông phái khác, tức là chứng ngộ. Muốn vậy, tức phải thực hành pháp quán “bát bất trung đạo”.

Bát bất tức là: Bất sinh, bất diệt; Bất đoạn, bất thường; bất nhứt, bất dị; bất khứ, bất lai. Không ngộ được tám món ấy tức là không rõ chơn đế và tục đế; mà không rõ được chơn đế và tục đế thì cũng không thể nào nhận thấy được ý nghĩa của trung đạo.

Pháp quán này có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn quán về một phần của “bát bất “; chẳng hạn giai đoạn thứ nhứt quán về “bất sinh, bất diệt”; giai đoạn thứ hai quán về “bất đoạn, bất thường…” .

Trong mỗi giai đoạn như thế phải quán năm câu:

1.- Câu thứ nhứt: “thật có sinh, thật có diệt” — ấy là giả thiết thật có sanh diệt như thế gian thường chấp, để mà bác. Chấp như thế gọi là đơn tục (đứng riêng về mặt thế tục), tức nhiên là thiên chấp (chấp một bên), chưa hợp với trung đạo.

2.- Câu thứ hai: “không sanh không diệt” — ấy là chấp không sanh không diệt làm thật, để mà bác. Chấp như thế gọi là đơn chơn, cũng là thiên chấp, không hợp với trung đạo.

3.- Câu thứ ba: “giả sanh giả diệt” — ấy là giả lập có sự sanh diệt phát xuất từ nơi bất sanh bất diệt. Đây tức là trung đạo về thế tục.

4.- Câu thứ tư: “giả bất sanh giả bất diệt”. Nếu sanh diệt đã giả, thời sự bất sanh bất diệt cũng là giả — ấy là trung đạo về chơn đế.

5.- Câu thứ năm: “không phải sanh diệt, mà cũng không phải là không sanh diệt”. Đây là dung hợp cả tục đế và chơn đế mà tìm ra lý trung đạo. Thật vậy, thật tướng của pháp giới không sanh diệt, mà cũng không phải không sanh diệt. Đến đây là bặt dứt lời nói phô, tâm niệm lự, mà chỉ nhờ trực quan mới đạt tới.

Trong năm câu này, thì ba câu cuối (từ câu thứ ba đến câu thứ năm) thường gọi là tam trung (ba lý trung đạo). Vì thế cho nên trong pháp quán này, người ta thường nói: dùng năm câu và ba lý trung đạo để quan sát.

Trên đây là chỉ đưa ra một số thí dụ về một giai đoạn trong pháp “pháp trung đạo bát bất”. Sau khi quán hết giai đoạn thứ nhất “bất sinh, bất diệt”, hành giả tiếp tục giai đoạn thứ hai là “bất đoạn, bất thường”. Và cứ như thế mà quán cho đến hết tám cái “bất”.

Đây là pháp quán riêng biệt của tam luận tông. Ngoài ra trên đường tu hành, hành giả còn tùy theo căn cơ mà tu các pháp môn khác như Lục độ vạn hạnh.

 

  1. QUẢ VỊ TU CHỨNG

Giáo lý đã có phân chia thành chơn đế và tục đế, thì quả vị tu chứng cũng đứng về hai phương diện mà xét.

  1. Chơn đế: Nếu đứng về phương diện chơn đế mà xét thì không có vấn đề chứng hay không chứng, thành Phật hay không thành Phật, vì mê ngộ vốn không, nhiễm tịnh đều bình đẳng, hết thảy chúng sanh xưa nay là Phật rồi.
  2. Tục đế: Nếu đứng về phương diện tục đế, thì căn cơ chúng sanh không giống nhau, nên sự tu chứng cũng có chậm có mau. Với những căn cơ rất lanh lợi, thì trong một niệm có thể thành tựu “chánh quán bát bất”, chứng được quả Phật. Trái lại, với những căn cơ chậm lụt, thì trải qua ba đại kiếp tu hạnh lục độ vạn hạnh, mới được thành Phật. Nếu tuần tự mà tiến thì phải trải qua 52 quả vị. Trong các tông khác quý độc giả cũng thường nghe nói đến 52 quả vị, nhưng chúng tôi chỉ nêu danh mà không nói rõ nội dung, đến Tam luận trong này, nên chúng tôi tưởng nên trình bày rõ một lần về các quả vị ấy, và để sau nầy, khi qua các tôn khác, nếu quý độc giả có gặp lại 52 quả vị này, cũng sẽ không còn bỡ ngỡ. 52 quả vị ấy là:

Thập tín (mười bậc lấy đức tin làm gốc):

  1. Tín tâm 2. Tinh tấn tâm
  2. Niệm tâm 4. Định tâm
  3. Huệ tâm 6. Thí tâm
  4. Giới tâm 8. Hộ tâm
  5. Nguyện tâm 10. Hồi hướng tâm

Thập trụ: Trụ là an trụ. Các vị Bồ-tát khi mới phát tâm, an trụ nơi mười bực này mà tu hành, trên cầu chứng được quả Phật, dưới hóa độ chúng sanh. Thập trụ là:

  1. Phát tâm trụ 2. Trị địa trụ
  2. Tu hành trụ 4. Sanh quý trụ
  3. Phương tiện trụ 6. Chánh tâm trụ

7.- Bất thối trụ 8. Đồng chơn trụ

  1. Pháp vương tử trụ 10. Quán đảnh trụ

Thập hạnh: Mười bực này chú trọng tu hạnh lục độ nhiều hơn các hạnh khác,. Nên gọi là hạnh. Mười hạnh là:

  1. Hoan hỷ hạnh 2. Nhiêu ích hạnh
  2. Vô nhuế hạnh 4. Vô tận hạnh
  3. Ly si loạn hạnh 6. Thiện hiện hạnh
  4. Vô trước hạnh 8. Tôn trọng hạnh
  5. Thiện pháp hạnh 10. Chơn thiện hạnh

Thập hồi hướng: Hồi nghĩa là xoay về, Hướng tức là xu hướng. Hành giả đem mười hạnh này mà quy hướng về ba nơi sau đây:

a/ Xoay sự về lý, lấy chơn như thật tế mà làm chỗ chứng.

b/ Xoay nhơn về quả, lấy đạo vô thượng Bồ-đề làm chỗ sở cầu.

c/ Xoay mình về nơi người, một lòng bình đẳng, phổ độ chúng sanh.

Mười hồi hướng là:

1- Cứu độ chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng; nghĩa là cứu giúp chúng sanh mà không chấp trước về sự cứu giúp.

2- Bất hoại hồi hướng; nghĩa là không bao giờ thối tâm cứu giúp chúng sanh.

3- Đẳng chư Phật hồi hướng: nghĩa là lòng từ bi cứu giúp chúng sanh cũng bằng chư Phật.

4- Chí nhứt thiết xứ hồi hướng: nghĩa là lòng cứu giúp chúng sanh mỗi việc đều chu đáo.

5- Vô tận công đức tạng hồi hướng; nghĩa là chất chứa công đức vô tận.

6- Tùy thuận nhứt thiết kiên cố thiện căn hồi hướng; nghĩa là thuận theo hết thảy căn lành bền chặt.

7- Đẳng tâm tùy thuận nhứt thiết chúng sanh hồi hướng; nghĩa là đem tâm bình đẳng tùy thuận hết thảy chúng sanh.

  1. – Như tướng hồi hướng; nghĩa là các công đức hồi hướng về tự tánh chơn như.
  2. – Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng; nghĩa là không chấp trước không ràng buộc, một lòng giải thoát.
  3. – Pháp giới vô lượng hồi hướng; nghĩa là hướng về pháp giới không cùng tận.

Bốn mươi quả vị trên này (Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng) nói về thời gian tu tập thì thuộc vào Kiếp A-tăng kỳ thứ nhứt.

Thập địa: Mười bực này, vì tóm thâu các công đức hữu vi và vô vi, dùng làm tự tánh, cùng làm chỗ nương dựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hành, nên gọi là Địa. Mười địa là:

  1. Hoan hỷ địa 2. Ly cấu địa
  2. Phát quang địa 4. Diệm huệ địa
  3. Nan thắng địa 6. Hiện tiền địa
  4. Viễn hành địa 8. Bất động địa
  5. Thiện huệ địa 10. Pháp vân địa

Trong thập địa, mỗi địa còn có ba tâm: Nhập, Trụ, Xuất. Khi vừa bước vào một bực nào, gọi là nhập tâm. Trong lúc ở yên trong bực ấy mà tu, gọi là trụ tâm. Sau khi tu tập lâu rồi, cần bước qua bực khác gọi là xuất tâm. Ba tâm ấy đều phải trải qua trăm ngàn số kiếp. Từ khi nhập tâm về sơ địa (tức Hoan hỷ địa) đến Thất địa (tức Viễn hành địa) phải trải qua suốt một kiếp A-tăng kỳ thứ hai. Từ Bát địa (tức Bất động địa) đến Thập địa (tức Pháp vân địa) thuộc về kiếp A-tăng kỳ thứ ba.

Đẳng giác: Khi đã mãn quả Thập địa thì gọi là Đẳng giác, là địa vị đã gần đến quả Phật.

Diệu giác: Tức là Phật quả, tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người, trí giác ngộ và công phu tu hành đều được đầy đủ, không thể nghĩ bàn nên gọi là Diệu giác. Bực này vì các lậu nghiệp đã hết sạch và không còn pháp gì phải học nữa, nên gọi là Vô-học đạo.

VI.- KẾT LUẬN

Như chúng ta đã thấy ở các phần trên, Tam-luận tông chủ trương “lấy phá làm tập”, phá tất cả những sự chấp trước của đạo ngoại, của Tiểu-thừa Tỳ-đàm, của Thành Thật Tông và của cả một số người tu theo Đại -thừa. Nhận chân được những sự sai lầm ấy tức là ngộ rồi đấy. Con đường đi đến chân lý không đâu khác hơn con đường mình đi. Nhưng muốn khỏi lạc đường và chậm bước, thì phải dẹp tất cả những hình bóng phỉnh-phờ và những chướng ngại vật trên đường đi ấy. Một khi sự phá dẹp hoàn thành thì chân lý tự nhiên hiện bày.

Theo thiển kiến chúng tôi. Tam Luận Tông không phải là một con đường Tu như các tông khác, mà đúng hơn là một cửa ải: Những hành-giả muốn đi từ Tiểu-thừa hay Đại-thừa Đốn giáo, hay Viên giáo thì phải đi ngang cửa ải Tam luận tôn. Đến cửa ải này, hành-giả bị lục soát một cách kỹ lưỡng, nếu ai còn mang theo một món hành lý “chấp trước” gì, thì không thể qua cửa ải này được. Hành-giả khi đi qua cửa ải này là phải thông suốt các vấn đề: có, không, sanh, diệt, thường, đoạn, nhất, dị v.v…

Vậy chúng tôi mong mỏi quý vị Phật-tử muốn đi xa hơn vào thế giới Trung-đạo hay Viên giáo thì hãy nghiên cứu cho kỹ Tam Luận Tông.

Chúc quý độc giả thành công.

 

 

Thứ Năm, ngày 18 tháng 4, năm 2019 – HOA NGHIÊM TÔNG HAY LÀ HIỀN THỦ TÔNG

7.- HOA NGHIÊM TÔNG HAY LÀ HIỀN THỦ TÔNG

 

  1. IDUYÊN KHỞI LẬP TÔNG 

Tông này thuộc về Ðại-thừa, căn cứ theo giáo-nghĩa trong kinh Hoa-nghiêm là một bộ kinh cao nhất mà Ðức-Phật đã nói ra, nên gọi là Hoa-nghiêm tông.

Người sáng lập ra tông này là Ngài ÐỗThuận,  một vị Hòa-thượng đời Ðường. Ngài đã thâu góp ý-nghĩa mầu-nhiệm của kinh Hoa Nghiêm, làm ra ba bộ “Pháp-giới quán”.

Người kế vị Ngài ÐỗThuận là Ngài Trí Nghiễm, ở chùa Trí-tướng. Ngài Trí Nghiễm đã làm ra nhiều bộ luận có giá trị để giải bày nghĩa lý của tông này như các bộ: ”Sưu huyền ký”, ”Thập huyền môn”, ”Ngũ thập yếu vấn đáp”.

Vị thừa kế Ngài Trí Nghiễm và đã có nhiều công nghiệp lớn đối với Tông này là Ngài Pháp Tạng, cũng gọi là Hiền-Thủ quốc sư. Ngài đã làm ra bộ ”Thám huyền ký” và nhiều chương số khác, khiến cho Hoa nghiêm tông rất được thạnh-hành và phát triển trong đời Ngài. Do đó, Tông này cũng thường gọi là Hiền thủ tông. Sau khi Ngài Hiền Thủ qua đời được ít lâu, kinh Hoa Nghiêm được dịch lại bằng tiếng Hán văn bộ mới. Ngài Trừng Quán, tức là Thanh Lương quốc sư, dựa theo ý nghĩa bộ Hoa Nghiêm mới dịch này mà làm ra bộ ”Hoa nghiêm số sao”, bày giải nghĩa lý rộng rãi, sâu xa mầu nhiệm của kinh Hoa nghiêm. Vì thế, Hoa Nghiêm tông lại càng được người đời sùng mộ, nhất là trong giới thượng lưu trí thức nước Tàu.

II.-TÔNG CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

Trong các bộ kinh của Ðức Phật, kinh Hoa-Nghiêm là bộ kinh có ý nghĩa cao siêu, mầu nhiệm nhất. Chỉ những vị đại đệ tử, căn cơ minh mẫn, lanh lẹ mới có thể hiểu thấu được. Do đó, Hoa-Nghiêm tông chỉ thích hợp với những ai đã có một căn bản Phật pháp vững chắc và đã quen với lối suy luận trừu tượng của giáo lý nhà Phật. Ðem một giáo lý uyên thâm của Phật pháp ra trình bày trong một tập sách phổ thông như thế này, thật khó mà nói cho rõ ràng, đầy đủ nghĩa lý của Hoa-Nghiêm tông. Tuy thế, để có một bộ sách gồm đầy đủ mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa, và để quý độc giả có đủ tài liệu để so sánh sự sai khác của mỗi tông, chúng tôi không thể không nói đến Hoa-Nghiêm tông trong khi điểm qua tôn chỉ và giáo lý căn bản của mười tông. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách giản dị, gọn gàng về giáo lý đặc sắc của tông này, và cũng mong mỏi quý độc giả theo dõi một cách chăm chú sự trình bày này, ngỏ hầu vấn đề được sáng tỏ.

Tông này được gọi là ”Viên giáo”, nghĩa là giáo lý Viên dung hoàn toàn đầy đủ.

Tôn của chủ trương ”pháp giới duyên khởi” , nghĩa là vũ trụ vạn hữu trùng trùng do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, mọi sự vật trong vũ trụ bao la, là một vật nhỏ như hạt bụi, cho đến một vật lớn như trăng sao, đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp lớp không cùng tột, dung thông nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà có. Mỗi pháp trong vũ trụ không thể tồn tại riêng rẽ, biệt lập mà tự có được. Cái này có là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái này. Cái này và cái kia tương quan, tương duyên, lớp lớp không cùng tột, cho nên gọi là ”vô tận duyên khởi” hay ”trùng trùng duyên khởi”.

Vì là trùng trùng duyên nhau, nên một là hết thảy, hết thảy là một, mọi sự vật trong vũ trụ đều dung thông nhau. Và do đó, trong kinh Hoa-Nghiêm đã nêu lên pháp môn ”sự sự vô ngại pháp giới”.

Ðể hiểu rõ nghĩa lý của pháp môn này, chúng ta hãy đi theo pháp quy nạp gồm có 4 giai đoạn sau đây, cũng gọi là 4 pháp giới:

1.- Sự pháp giới: Sự là nói về các hình tướng sai biệt các pháp trong vũ trụ, trong vũ trụ, các pháp đều có giới hạn rõ ràng như nước lạnh, nước đá, nước sôi, hơi nước, đều có tướng trạng khác nhau. Ðó là đứng về sự mà quan sát vũ trụ vạn hữu hay nói theo danh từ đạo Phật là “Sự pháp-giới “.

2.- Lý pháp-giới: Lý là nói về các phần bên trong, vô hình của sự vật. Ðây tức là lý tánh bình đẳng, chỗ nương tựa cho tất cả sự tướng; lý dung thông cho khắp tất cả, nước lạnh, nước đá, hơi nước, tuy tướng trạng khác nhau, nhưng thể tánh vẫn là một (nghĩa là gồm H2+O). Vũ trụ vạn hữu không chỉ có phần sự tương mà còn phần lý tánh nữa. Ðó tức là “Lý pháp-giới”.

3.- Lý sự vô ngại pháp-giới: Như trên chúng ta đã thấy, mỗi pháp đều có Sự và Lý do nơi Sự mà rõ, sự nương vào Lý mà thành. Lý và Sự dung thông, như nước tức là sóng, sóng tức là nước. Lý, Sự trong pháp-giới cũng dung thông, vô ngại. Ðó là lý nghĩa của “Lý, Sự vô ngại pháp-giới “.

4.- Sự vô ngại pháp-giới: Trong pháp-giới, có hằng hà sa sự vật, hình tướng tuy khác nhau, giới hạn tuy bất đồng nhưng lý tánh dung thông bình đẳng, không có phân chia ngăn cách. Nhờ lý, mà sự sự được dung thông vô ngại. Như các vật dụng bằng điện, nào quạt điện, đèn điện, máy lạnh, ủi điện, lò xo, v.v…tuy mỗi vật đều có hình dáng, công dụng khác nhau, nhưng đều thông nhau qua luồng điện chi phối lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại. Một thí dụ khác: nhiều hồ chứa nước, hình dáng, rộng hẹp khác nhau, nhưng ăn thông với nhau bằng những ống nước, do đó sự đầy vơi, nhớp sạch của một hồ này đều liên quan mật thiết đến tất cả các hồ khác.

Trên đây là những thí dụ vô cùng thô thiển, cốt để gợi lên một ý niệm về “Sự sự vô ngại Pháp-giới ” thôi, chứ không đúng hẳn. Trong hai thí dụ trên, chúng ta lấy những vật dụng điện khí hay những hồ nước để hình dung cho Sự Sự trong pháp giới; và lấy những luồng điện hay luồng nước để hình dung cho Lý của pháp-giới; thí dụ như thế, người ta sẽ tưởng rằng Sự và Lý là hai loại khác nhau, có thể phân tách ra được. Nhưng thật ra Lý và Sự không thể phân tách ra được: trong Sự có Lý, trong Lý có Sự. Sự, Lý chẳng qua là hai phương diện của một vấn đề vô cùng tế nhị, mà lý trí của chúng ta đã phân tách ra để tạm nghiên cứu đó thôi.

Ðể tóm tắt ý nghĩa của 4 pháp-giới này, chúng tôi xin nói một cách giản dị như sau:

  • Pháp-giới gồm có triệu sự vật khác nhau, như A, B, C …(Sự pháp-giới ).
  • Trong mỗi sự vật đều có lý tánh bình đẳng, mà chúng tôi hình dung là L (lý pháp-giới).
  • Lý tánh bình đẳng ấy dung thông với tất cả mọi sự vật, như A=L; B=L; C =L. (Lý, Sự vô ngại pháp-giới).
  • Nhờ lý tánh dung thông với mọi sự vật, mà mọi sự vật trong vũ trụ trở thành dung thông nhau, vô ngại đối với nhau, như A =C …(Sự sự vô ngại pháp-giới).

Sáu Tướng Và 10 Lý Huyền diệu Của các Pháp

Trong pháp-giới, sở dĩ Sự sự được vô ngại, dung thông là đều do các pháp có đủ ”sáu tướng” và “mười lý huyền diệu” sau đây:

Sáu Tướng Viên Dung

Dựa theo bộ kinh Hoa-Nghiêm, Ngài Bồ Tát Thế Thân đã làm ra bộ “Thập địa luận” để giải thích nghĩa lý của sáu tướng (Lục tướng). Sáu tướng này được gọi là Viên-dung, vì nó có những đức tính viên mãn, dung-thông vô-ngại. Sáu tướng của sự vật trong vũ trụ ấy là:

1.- Tổng tướng: tổng tướng là cái tướng bao trùm tất cả, tổng cộng tất cả các tướng sai biệt. Như khi ta nói đến cái nhà, là gồm tất cả cột, kèo, tường, mái, đá, gạch …vậy cái nhà tức là tổng tướng.

2.- Biệt tướng: biệt tướng là nói các tướng riêng biệt; nhiều biệt tướng cộng lại thành tổng tướng. Như các biệt tướng trong cái nhà là: cột, kèo, mái, tường, gạch …Ðã có Tổng tức là phải có Biệt; nếu không có biệt thì cũng không thể lấy cái gì mà gọi là tổng.

3.- Ðồng tướng: Ðồng tướng là cái tướng chung cùng, dung hòa với nhau, không ngăn ngại nhau, không trái chống nhau. Như kèo, cột, tường, mái, tuy khác nhau, nhưng không ngăn ngại nhau mà vẫn đồng hướng chung về một cái nhà.

4.- Dị-tướng: Dị-tướng là các tướng riêng biệt, cái này, cái kia, hình tướng không giống nhau, mặc dù vẫn cùng nhau dung hòa để gánh vác một nhiệm vụ chung; như cột, kèo, tường , mái trong một cái nhà, không cái nào giống cái nào, dị tướng không phải là biệt tướng, cũng như đồng tướng không phải là tổng tướng.

Như một trăm đồng bạc là tổng tướng. Tổng tướng này là tổng cộng của các tờ bạc: một tờ 50 đồng, hai tờ 20 đồng, một tờ 10 đồng (50+40+10=100). Những tờ giấy bạc 50, 20,10 là biệt tướng. Những tờ giấy bạc này to, nhỏ, hình ảnh, màu sắc khác nhau, là dị tướng. Mặc dù hình tướng khác nhau, nhưng cũng là những tờ bạc cả, tánh chất “bạc” là đồng tướng.

5.- Thành tướng: Thành-tướng là tướng thành tựu. Sự chung cùng để thành ra một cái gì, đó là thành-tướng. Như cái nhà là sự thành tựu của các cái cột, kèo, tường, mái …vậy cái nhà, đứng về phương diện công dụng để ở, là thành tướng của các cột, kèo, tường, mái…nếu lấy thí dụ 100 đồng, thì số tiền này là thành tướng của những tờ 50 đồng, 20 đồng và 10 đồng. Nhờ sự kết hợp của những số tiền này mà có được số bạc 100 để mua được một vật gì đó, như thế là thành tướng.

6.- Hoại tướng: Hoại tướng là cái tướng độc lập của các pháp. Như cột, kèo, tường, mái trong khi hợp tác với nhau, để thành cái nhà, thì vẫn giữ cái địa vị riêng của nó là cột, kèo, tường, mái chứ không phải vì thành cái nhà mà chúng nó không còn là cột, kèo, tường, mái nữa. Cũng như trong khi hợp thành số bạc 100 đồng, các tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng vẫn là những tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng, vẫn giữ cái giá trị riêng của mỗi thứ.

Sáu tướng này phân ra làm ba đối, gọi là “Tam đối lục tướng “.

  • Tổng, Biệt cùng đối nhau thuộc về Thể.
  • Ðồng, Dị cùng đối nhau thuộc về Tướng.
  • Thành, Hoại cùng đối nhau thuộc về Dụng.

Nếu chúng ta lấy con sư tử bằng vàng làm ví dụ thì toàn thể thân hình của nó là tổng tướng; mỗi bộ phận riêng lẻ như tai, mắt, mũi, lưỡi là biệt tướng; chất vàng của nó là đồng tướng; mỗi bộ phận có hình dáng riêng khác là dị tướng; mỗi bộ phận cộng tác hòa hiệp với nhau để hình thành một con sư tử là Thành tướng; nhưng mỗi bộ phận đều có phạm vi riêng biệt, tự lập của nó là Hoại Tướng.

Khi chúng ta nói đến Tổng, Ðồng, Thành là nói về phương diện toàn thể, Viên-dung bình đẳng của bản thể vũ trụ; khi chúng ta nói đến Biệt, Dị, Hoại là nói về phương diện hiện tượng giới, trong ấy mỗi mỗi sự vật đều phơi bày riêng rẽ khác nhau. Theo trong kinh Hoa-Nghiêm thì Tổng, Ðồng, Thành, Tướng thuộc về môn viên dung; còn Biệt, Dị, Hoại, Tướng thuộc về môn hàng bố (nghĩa là hiển lộ, phơi bày la liệt). Một bên là bình đẳng, một bên là sai biệt. Nhưng bình đẳng và sai biệt là tướng tức, tướng nhập, viên dung không. Tương tức nghĩa là cái này tức cái kia, như nước tức là sóng; tương nhập nghĩa là ăn nhập với nhau, dung thông nhau, như mặt gương này và mặt gương kia phản chiếu vào nhau không cùng? mà không cản trở gì nhau. Vì tương tức, tương nhập, nên lìa tổng tướng thời không biệt tướng, lìa đồng tướng thì không dị tướng, lìa thành tướng thì không hoại tướng. Tóm lại, viên dung không lìa hàng bố, hàng bố không lìa viên dung, viên dung tức hàng bố, hàng bố tức là viên dung. Hết thảy các pháp đều đủ 6 tướng ấy, không một pháp nào là không viên dung tự tại, tức, nhập không ngại. Vì thế cho nên gọi là 6 tướng viên dung. Ðấy là ý-nghĩa huyền diệu của Hoa-Nghiêm nhất thừa viên giáo.

Mười Lý Huyền Diệu Của các Pháp Hay Mười Huyền Môn 

Ngoài sáu tướng nói trên, các pháp còn có mười lý huyền diệu, hay mười đức tính huyền diệu, mà bộ kinh Hoa-Nghiêm sớ sao và bộ Tham Huyền Ký của Ngài Hiền Thủ có giải thích như sau:

1.- Môn “đồng thời cụ túc tương ương”  ( đồng thời đầy đủ các pháp tương ứng) : Nghĩa là trong mỗi một pháp nào đồng thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ trụ. Như một giọt nước có đủ khí vị của muôn ngàn sông biển.

2.- Môn “quảng hiệp tự tại vô ngại” ( rộng và hẹp tụ tại không ngại): Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa hẳn là lớn, vật gọi là nhỏ chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mũi?? lông, có thể chứa được thái hư ; và một vật rộng như thái hư  có thể nằm gọn trong đầu mũi lông? mà không chật. Ðây muốn nói rằng, trong pháp giới, sự sự đã vô ngại, dung thông, thì quan niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông, không có biên giới nhất định giữa một vật này với một vật khác: Một vật nhỏ như vi trần có liên quan đến vũ trụ; một vật lớn như vũ trụ có liên quan đến một vi trần. Cho nên kinh Hoa-Nghiêm có chép: ”trong một mảy trần, hết thảy cõi nước rộng rãi an trụ” để giải thích ý nghĩa này, kinh thường dạy: “Sự Lý mà được dung thông, tự tại không ngăn ngại”.

3.- Môn “nhất, đa tương dung bất đồng” (một và nhiều dung nhau không đồng: Nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không phá hoại cái tướng riêng biệt (an lập) của mỗi vật. Như muôn ngàn ngọn đèn thắp sáng trong một gian nhà, ngọn này ngọn kia lẫn hiệp với nhau, nhưng ngọn nào vẫn có ánh sáng riêng của nó

4.- Môn “chư pháp tương tức tự tại”  (các pháp tương tức tụ tại): Nghĩa là các pháp cùng dung, cùng tức, không ngăn ngại nhau. Như một pháp khi bỏ mình đồng với các pháp khác, thì toàn thể đều nơi pháp kia; nếu một pháp nhiếp thâu các pháp đồng về mình, thì hết thảy các pháp kia lại về một nơi pháp thâu nhiếp ấy. Cũng ví như chất vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.

5.- Môn “bí mật ẩn hiện câu thành” (ẩn mật tỏ rõ đều thành): Nghĩa là một pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiện thì phương diện kia ẩn; khi phương diện kia ẩn , thì phương diện này hiện; trong ẩn có hiện; hiện ẩn đắp đổi nhau mà thành tựu. Sự ẩn hiện cũng không nhất định cái nào sau cái nào trước, cũng không ngăn ngại, chống đối nhau. Như một pho tượng bằng vàng, khi chú ý đến vàng thì không thấy cái đẹp của pho tượng, khi chú ý đến pho tượng thì không thấy vàng. Tóm lại, khi cái đẹp hiện thì vàng ẩn, khi vàng hiện thì cái đẹp ẩn.

6.- Môn “vi tế tương dung an lập” (vi tế dung nhau, an lập): Vi tế nghĩa là nhỏ nhiệm mà rõ ràng. Một vật nhỏ nhiệm này mà bao trùm một vật nhỏ nhiệm khác, mà không cản trở nhau, không phá hoại cá tướng của nhau. Như một hạt nước bao gồm nhiều hạt nước, mỗi hạt nước gồm nhiều hóa chất, mỗi hóa chất gồm nhiều nguyên tử, mỗi nguyên tử gồm nhiều điện tử, giữa những điện tử có cái nhân: Mỗi thứ đều dung nhau và an lập trong nhau.

7.- Môn “Nhơn đà la võng cảnh giới” (cảnh giới tướng võng nhơn-đà-la) : Nhơn đà la tức là phiên âm chữ  Indra là cõi trời Ðế Thích. Theo Bà la môn , thì trên cõi trời Nhơn đà la , có cái mạn lưới bằng bửu châu chói hiện đến muôn trượng, hạt này hạt khác phản chiếu nhau, chói sáng nhau, lớp lớp không cùng tận. Môn này cũng như vậy: trong mỗi pháp có nhiều pháp khác, trong nhiều pháp khác lại có nhiều pháp nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng tận. Kinh Hoa-Nghiêm có chép; “Hết thảy thế giới đều như màn lưới Nhơn đà la”.

8.- Môn “pháp sự hiểu pháp sanh giải” (nhơn sự rõ pháp, sanh trí hiểu biết)): Nghĩa là nhờ sự mà hiểu được lý; nhưng khi lý đã rõ, thì lý lại lan rộng làm cho chúng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự khác. Ðây muốn nói trí hiểu biết lan rộng dung thông qua sự vật, như vết dầu lan trên mặt nước, chỉ một tia lửa bừng cháy rất xa.

9.- Môn “thập thế cách pháp dị thành” (mười đời cách pháp dị thành): Ðây muốn nói thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một cách dễ dàng. Tại sao chia thời gian thành mười đời mà không chia làm ba đời? Ðánh lẽ chỉ nói quá khứ, hiện tại và tương lai là đủ. Nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi, trong kinh chia mười đời như sau; trong quá khứ cũng gồm có quá khứ, hiện tại và tương lai; trong hiện tại cũng gồm như thế và trong tương lai cũng vậy: ba đời, mỗi đời chia nhỏ thành chín. Nhưng nếu chia nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với nhau thì cũng không có được ý niệm về thời gian. Vì thế cho nên về chín niệm ấy, còn cộng thêm một niệm tổng (tổng quát) nữa, thành ra mười.

10.- Môn “chủ, bạn, viên minh cụ đức” (chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức sáng suốt hoàn toàn): Như chúng ta đã thấy ở các phần trên: các pháp nương nhau mà thành. Nếu ta lấy một pháp làm chủ, thì các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức, lớp lớp không cùng tận, như mặt trăng sáng trên không, chung quanh đoanh vây những vì sao nhấp nháy, rồi trên mặt đất bao nhiêu sông ngòi, ao hồ lại phản chiếu ánh sáng trăng sao ở trên không, làm cho cảnh vật ở khắp nơi rạng rỡ.

Tóm lại, mười lý huyền diệu này cộng với sáu tướng nói trên của các pháp là nguyên nhân giải thích vì sao “sự sự được vô ngại” trong pháp giới, và giải nghĩa một cách đầy đủ giáo lý “trùng trùng duyên khởi” mà Hoa-Nghiêm tông chủ trương.

III.- PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH

Giáo lý căn bản của Hoa-Nghiêm tông đã sâu xa mầu nhiệm, thì phương pháp tu hành tất nhiên cũng phải cao siêu, mầu nhiệm mới đưa hành-giả đến chỗ cứu cánh tu hành. Tựu trung, trong các phương pháp tu hành ấy, ba pháp quán về pháp giới sau đây được xem là các pháp môn trọng yếu và có hiệu quả rốt ráo nhất:

1.- Chơn không quán: “Chơn” có nghĩa là chơn thật, không hư vọng; “không” nghĩa là không bị sắc tướng chi phối, ngăn ngại.

Pháp quán này dựa trên”lý pháp giới” mà lập ra. Mục đích của pháp quán này là dứt vọng tình, rõ chơn tánh , khiến cho hành-giả thấy sắc mà không bị sắc ngăn ngại và nhận được rằng toàn thể là chơn không; thấy không , mà nhận được rằng đó không phải là không hẳn ( đoạn không ) mà toàn là chơn tánh. Tóm lại, pháp quán này nhìn thấu qua được sự đối đãi giả dối của cái không và cái có, để nhận rõ được cái “lý của vũ trụ (lý pháp giới) là chơn không” (đã giải ở trên)

2.- Lý sự vô ngại quán: Pháp quán này y theo “lý sự vô ngại pháp giới” mà lập ra. “Lý” là thể tánh thanh tịnh sáng suốt; “Sự” là hình tướng phận hạn của các pháp. Lý, Sự vô ngại, như trong phần giáo lý căn bản đã có nói ở trước, nghĩa là Lý và Sự không phải hai loại chống nhau, ngăn cách nhau, mà trái lại, dung thông nhau. Lý, Sự thấu suốt, viên dung không ngại nên gọi là “Lý, Sự vô ngại quán”.

Theo pháp quán này, hành giả quan sát cái sắc tướng của một mảy trần mà khám phá ra được cái lý của vũ trụ. Tức là qua cái tướng hư giả của sự vật mà thấy được cái tánh sáng suốt của nhứt chơn.

  1. Châu biến hàm dung quán: Pháp quán này dựa trên cái lý “Sự sự vô ngại pháp giới” mà lập ra. “Châu biến” mà lan ra, biến hóa cùng khắp tất cả; “Hàm dung” là bao gồm, thâu nhiếp hết, dung thông tất cả. “Châu biến hàm dung quán” là pháp quán nhằm mục đích nhận chân được rằng: cái pháp một và nhiều không ngại nhau, lớn và nhỏ trùng nhau, dung nhiếp lẫn nhau, lớp lớp không cùng tột, ẩn hiện tự tại, đồng thời tương tức tương nhập, thâu nhiếp, dung thông nhau cho đến vô cùng vô tận, trùm chứa cả vũ trụ bao la.

Theo pháp quán này, hành giả quan sát cái Lý nơi một Sự, rồi do một Sự ấy mà mỗi mỗi Sự khác cũng đều thấy rõ. Hành giả lại quán mọi Sự tức nơi Lý, rồi theo Lý ấy mà mỗi mỗi Sự đều dung thông.

  1. IVQUẢ VỊ TU CHỨNG

Theo Hoa Nghiêm tông, giải-thoát vẫn không phá hoại thế-gian tướng; nói một cách khác, không phải phủ nhận thế gian tướng mà có thể tìm thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Ngay trong thế gian này, nếu hành giả phân biệt được chân vọng, khử trừ điên đảo, khiến cho tâm thanh tịnh để cùng thật tại nhất trí: Ðó là giải thoát.

Quan niệm về giải thoát của Hoa-Nghiêm tông này không khác với Thiên Thai tông, nghĩa là đều chủ trương một cách lạc quan rằng chúng sanh và Phật không sai cách: không nhận chân được lý trùng trùng duyên khởi, sự sự vô ngại pháp giới là chúng sanh; giác ngộ được chân lý trên là Phật.

  1. VKẾT LUẬN

Hoa-Nghiêm tông vì y theo bộ kinh cao nhất của Phật mà thành lập, nên được liệt vào hạng viên giáo, nghĩa là giáo lý hoàn toàn viên mãn. Và cũng vì là viên giáo cho nên phải cần một căn trí thông lợi mới tu theo được.

Vậy hành giả, trước khi muốn lựa con đường này để tiến bước cần phải cân nhắc cho kỹ lưỡng, nhất là cần phải tìm nghiên cứu thêm cho thấu đáo. Nếu thấy nó khó hiểu quá cao đối với căn cơ của mình, thì tốt hơn, nên tìm một con đường khác, bởi vì con đường nào, cuối cùng cũng đưa đến giải thoát cả.

Nhưng nếu quý vị nào nhận thấy căn cơ của mình có thể theo kịp giáo lý huyền diệu của tông này,thì đó cũng là một diễm phúc lớn. Trí tuệ quý vị sẽ nếm được hương vị thanh cao nhất của đạo nhiệm mầu, và sự tu hành của quý vị cũng mau đến đích, vì quý vị đã trèo theo con đường thẳng đứng để lên đỉnh núi “giải thoát”. Bao giờ con đường thẳng đứng cũng khó trèo, nhưng mau đến đích hơn những con đường vòng quanh co. Trong vấn đề tu hành cũng vậy.