PHÁP HOA TÔNG (hay là Thiên Thai Tông)
I.- Duyên Khởi Lập Tông
Thiên-thai tông được khởi xướng từ Bắc-Tề, do Ngài Huệ-Văn Thiền-sư dựa vào bộ Trí-độ luận mà lập ra pháp “Nhứt tâm tam quán”. Pháp quán này được truyền lại cho Ngài Nam-Nhạc Huệ-Tư Thiền-sư. Ngài Huệ-Tư lại truyền cho Ngài Trí-Giả ở núi Thiên-thai. Ngài Trí-Giả là một bậc đại sư, y theo kinh Pháp-hoa, bổ túc thêm cho pháp “Nhứt tâm tam quán” được hoàn-bị và lập thành một tông phái có uy-thế tại núi Thiên-thai. Do đó mới có cái tên Thiên-thai tông (hoặc gọi là Pháp-hoa tông). Vị đại đệ-tử của Ngài Trí-Giả là Chương-An Đại sư ghi chép lại những lời của Thầy, làm ra nhiều bộ luận có giá-trị, để làm cơ sở cho Thiên-thai tông, như bộ Pháp-hoa huyền-nghĩa, Pháp-hoa văn cú, Ma-ha chỉ-quán. Từ Ngài Chương-An, giáo-nghĩa của tông này được hoằng truyền mãi qua các vị đại đệ-tử, thứ tự như sau: Ngài Trí-Oai, Ngài Huệ-Oai, Ngài Huyền-Minh và Ngài Trạm-Nhiên.
Đến đời Ngài Trạm-Nhiên, cũng gọi là Kinh-Khê tôn-giả, giáo-lý và tôn-chỉ của Thiên-thai tông lại được rộng truyền và thêm nhiều thanh-thế, vì Ngài Trạm-Nhiên là một vị cao-tăng, học rộng, hiểu nhiều, bổ-túc và chú-giải thêm cho các bộ luận căn-bản của tông được hoàn-bị. Từ Ngài Trạm-Nhiên về sau, đời nào cũng có những vị đệ-tử có tài đức rộng truyền giáo-nghĩa của tông này.
Kinh sách của Thiên-thai tông rất nhiều, trong số này có thể lựa ra ba bộ sách lớn làm căn- bản cho tông này là: Pháp-Hoa Huyền-Nghĩa, Pháp-Hoa Văn-Cú, Ma-Ha Chỉ-Quán. Ngoài ra còn có thể kể thêm năm bộ nhỏ, tuy không quan trọng bằng ba bộ trên, nhưng cũng rất cần thiết cho người tu học là: Quán-âm huyền-nghĩa, Quán-âm nghĩa-sớ, Kim-quang-minh huyền-nghĩa, Kim-quang-minh văn-cú và Quán-kinh-sớ.
II.- Tôn Chỉ Và Giáo Lý căn bản
Cũng như các tông phái khác trong Phật-giáo, Thiên-thai tông không đi ra ngoài giáo lý căn-bản của đức Phật. Đó là: “Chư pháp duy nhất tâm”. Cái công lớn của Thiên-thai tông là làm sáng tỏ giáo-lý trên bằng một phương-pháp diễn-dịch rất là minh-bạch tinh-vi.
Sao gọi là “Chư pháp duy nhất tâm?” Theo Thiên-thai tông thì ngoài tâm không có các pháp, ngoài các pháp không có tâm. Tâm tức là nhất thiết pháp, nhất thiết pháp ấy là tâm. Hai cái không phải là khác, nhưng cũng không phải là một. Tâm bao-trùm tất cả. Tâm tức là chúng-sanh, tâm cũng tức là Bồ-tát, Phật. Sinh tử cũng ở nơi tâm ấy, Niết-bàn cũng ở nơi tâm ấy.
Nhưng làm sao để nhận chân được những phương-diện của tâm, mà mới nghe qua hình như là trái ngược, mâu-thuẫn với nhau.
Muốn thấy được toàn diện của tâm, người quan-sát phải đứng ở nhiều khía cạnh, nhiều quan-điểm khác nhau mà nhìn:
– Nếu chúng ta đứng về phương-diện tuyệt-đối mà xét sự-vật (hay nói theo danh-từ nhà Phật, đứng về phương-diện chơn-đế), thì thấy sự-vật trong vũ-trụ, không có một vật gì tự nó đứng vững một mình và tồn-tại, mọi vật đều nương vào nhau mà tồn-tại, mọi vật không có thể tự riêng-biệt, mọi vật đều do nhân-duyên mà thành. Cái “có” của sự vật là một cái có tạm-bợ giả-dối, “có” mà cũng như “không”. Đứng về phương-diện tuyệt-đối mà xét thì không có một pháp nào là tuyệt-đối cả. Cho nên gọi là “không”.
– Nhưng nếu đứng về phương-diện tương-đối mà xét (hay nói theo danh-từ nhà Phật, là phương-diện tục-đế), thì không thể bảo mọi pháp là hoàn-toàn “không” được. Trước mắt chúng ta, đành-rành có đủ mọi vật, và mỗi vật có một giới-hạn, một đời sống riêng-biệt, sao lại bảo là hoàn-toàn “không”? Cho nên đứng về phương-diện đối-đãi, thì mọi vật đều không thiếu một vật gì.
Đứng về phương-diện tuyệt-đối, thì vạn pháp là “không”; đứng về phương-diện tương-đối thì vạn pháp là “có”. “Không” và “có”, đấy là hai phương-diện của tâm. Lấy phương-diện này mà bỏ phương diện kia, hay trái lại lấy phương-diện kia mà bỏ phương-diện này, đều là thiên chấp, thiếu sót. Một giáo-lý hoàn-toàn là phải chấp-nhận cả hai phương-diện ấy. Đó là trung-đạo. Phải là trung-đạo mới có thể tuyên-bố: “Tâm là nhứt thiết pháp, nhứt thiết pháp là tâm; tâm là sanh-tử luân-hồi, mà cũng là Niết-bàn tịch-tịnh.”
Như thế tâm có đầy đủ các tánh: thiện và ác, tịnh và bất tịnh, Phật và chúng-sanh. Trong cõi sanh-diệt vô-thường, vẫn có cái lý bất sanh bất diệt; trong cõi Ta-bà, vẫn có cảnh-giới của Phật. Đó là ý-nghĩa của câu “pháp-môn tánh cụ”, mà tông này thường chủ trương. “Pháp-môn tánh cụ” nghĩa là bản-tánh bao giờ cũng có đủ các pháp, như lành và dữ, tịnh và bất-tịnh v.v…Do có đủ các pháp, nên hành-động như thế nào thì kết-quả sẽ như thế ấy. Muốn thành Phật, thì tu nhơn Phật, còn muốn làm chúng-sanh thì tạo nhơn chúng-sanh. Chúng-sanh muốn thành Phật chỉ dứt trừ ác-nghiệp và chuyển lại tu thiện-nghiệp.
Và cũng vì có đủ các pháp, nên trong mỗi pháp-giới nào cũng đều có đầy đủ mười pháp-giới là sáu loại phàm-phu (Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh, Tu-la, Nhơn, Thiên) và bốn bậc Thánh (Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát và Phật).
Do chủ trương: “Pháp-môn tánh cụ”, và mỗi pháp-giới đều có đủ mười pháp-giới, nên quan-niệm tu-hành của Thiên-thai tông cũng lạc-quan hơn các tông-phái khác: Ở trong pháp-giới nào dù tối tăm, khổ sở bao nhiêu cũng có thể tu-hành và thành tựu được. Như thế không cần phải từ bỏ một cảnh-giới này, cầu sanh vào một cảnh-giới khác mới có thể tu-hành và thành Phật.
III.- Phương-Pháp Tu-Hành
Phần chủ-trương của Thiên-thai tông như vừa trình-bày ở trên, có phần lạc-quan và dễ-dàng: trong cảnh-giới hiện-tại có đủ cảnh-giới phàm và thánh; muốn thành Phật, Bồ-tát thì cứ gieo nhơn (tu-hành) thành Phật, Bồ-tát. Đó là nói về lý-thuyết. Nhưng trong thực-hành, không phải dễ-dàng như thế.
Trước tiên, chúng ta phải nhận-định hoàn-cảnh thực-tế của chúng-sanh là một hoàn-cảnh bị che phủ rất nhiều mê-lầm, hay nói theo thuật-ngữ nhà Phật thì là “chướng” hay “hoặc”. Dứt trừ được những “chướng” hay “hoặc” ấy là công việc chính của người tu-hành. Nhưng muốn dứt trừ những tên giặc nguy-hiểm ấy, trước tiên phải tìm hiểu tướng-trạng, hành-tung, phạm-vi hoạt-động của chúng như thế nào đã. Những chướng-ngại, mê-lầm hay những hoặc nói trên nhiều vô số, nhưng có thể phân chia làm ba loại, từ cạn đến sâu, từ hẹp đến rộng. Đó là: kiến-tư-hoặc, trần-sa-hoặc và vô-minh hoặc.
1.- Kiến-tư-hoặc: Kiến-tư-hoặc tức là danh-từ chỉ cho những kiến-hoặc và tư-hoặc. Kiến-hoặc là sự mê-lầm về lý, làm che-lấp trí-não của chúng ta, không cho thấy rõ được chơn-lý; tư-hoặc tức là điều mê-lầm về sự, nghĩa là những sự tham-nhiễm chấp-trước theo sự vật, hoàn-cảnh. Vì hai thứ mê-lầm về lý và sự này mà chúng-sanh phải sanh-tử luân-hồi, lăn-lóc trong ba cõi. Những mê-lầm này thường được gọi là những mê-lầm về giới-nội, nghĩa là ràng-buộc chúng-sanh trong ba giới. Hàng Nhị-thừa chỉ mới khám-phá ra loại mê-lầm này, ngoài ra không nhận ra được những mê-lầm hay “hoặc” sâu-xa hơn nữa. Vì thế, khi họ tu-tập và dứt trừ được những “hoặc” này, thì họ cũng mới chỉ thoát ra ngoài tam giới mà thôi.
2.- Trần-sa-hoặc: Trần-sa nghĩa đen là cát bụi. Trần-sa-hoặc là những hoặc nhiều không thể đếm được, như cát bụi. Thật vậy, các pháp trong thế-gian và ngoài thế-gian đã là vô hạn lượng, thì sự mê-lầm cũng nhiều không thể lường được. Những kẻ tâm-lượng hẹp-hòi và không tìm được nguyên-nhân của những “hoặc” ấy, nên hoảng sợ trước trần-sa-hoặc, không dám phát lòng đại-bi cứu-độ chúng-sanh. Chỉ riêng các bậc Bồ-tát mới dứt trừ mê-lầm ấy, nên trần-sa-hoặc cũng gọi là biệt-hoặc; và vì nó rộng lớn, ra ngoài cả ba giới nên cũng gọi là giới-ngoại-hoặc.
3.- Vô-minh-hoặc: Chữ vô-minh nghĩa chung là mê lầm. Mê lầm cũng có nhiều tầng bậc cạn và sâu, hẹp và rộng, thô thiển và vi tế. Hàng Tiểu thừa cũng dùng chữ vô-minh, mà hàng Đại thừa cũng dùng chữ vô-minh. Nhưng vô-minh theo quan niệm của Tiểu thừa là sự mê lầm che lấp không cho chúng sanh thấy được cội gốc của đau khổ, phiền não, nguyên nhân của sanh tử luân-hồi. Còn vô-minh theo nghĩa của Đại thừa và đặc biệt của Thiên Thai tông là sự mê lầm che lấp chơn lý thật tướng của Trung đạo. Vô-minh-hoặc ở đây có một nghĩa bao quát rộng-rãi như thế, nên cũng gọi là giới-ngoại-hoặc; và chỉ có hàng Bồ-tát mới dứt trừ được, nên cũng gọi là biệt-hoặc.
Đối trị với ba hoặc này, Thiên Thai tông lập ra ba pháp quán là: Không quán, Giả quán, và Trung quán.
Ba Pháp Quán: Ba pháp quán này nguyên Ngài Tuệ-Văn rút từ những phẩm kệ trong bộ Trung-luận của Ngài Long-Thọ Bồ-tát mà lập ra. Phẩm kệ ấy như sau:
Nhân-duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc thị vi giả danh
Diệc danh Trung-đạo nghĩa.
(Các pháp do nhân-duyên sanh, nên ta bảo là không, mà cũng là giả danh, đó cũng là nghĩa lý của Trung-đạo).
Đối với Thiên-thai tông thì ba pháp quán này là phần nòng cốt trong sự tu hành. Nếu không thực-hành ba pháp quán này thì không làm sao thành-tựu được. Ba pháp quán này, như trên đã nói: Không-quán, Giả-quán, và Trung-quán; nghĩa là quán các pháp cũng tức là Không, cũng tức là Giả, cũng tức là Trung.
- Không-quán: Không-quán là đứng về phương-diện chơn-đế mà quán-sát sự vật. Theo chơn-đế thì các pháp vốn là không, nhưng chúng-sanh vì mê lầm không rõ, chấp là có thật. Do đó mà có kiến-tư-hoặc, và cứ mãi quay cuồng trong sanh tử luân hồi của tam giới. Nay phải dùng Không-quán mà phá trừ sự mê lầm chấp-trước trên, cắt đứt tất cả tình chấp (loại trừ kiến và tư-hoặc) mới thoát khỏi sanh tử luân-hồi.
- Giả-quán: Giả-quán là đứng về phương-diện tục-đế mà quán sát sự vật. Các pháp tuy không và không sở-đắc nhưng đứng về thế-tục mà nhìn, thì thấy bản-tánh vốn đủ các pháp, muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào. Pháp quán này có thể dứt trừ được trần-sa-hoặc, vì hành giả biết rằng “hoặc” tuy nhiều như cát bụi, nhưng đều là giả cả, nên không lo sợ trước số nhiều ấy, và cứ vững tâm phát-nguyện độ sanh khắp tất cả.
3.Trung-quán: Trung quán là đứng về phương diện trung-đế để quán sát các pháp. Trung đế hay đệ-nhất-nghĩa-đế là sự thật đúng đắn nhất, không gì hơn, sự thật trung chánh, tóm thâu, bao gồm tất cả các sự thật khác. Khi đứng về chơn-đế hay tục-đế mà quán sát sự vật, thì không phải là không đạt đến sự thật; nhưng sự thật ấy mới chỉ được vén lên ở một khía cạnh này hay khía cạnh khác mà thôi. Và những sự thật ấy, nếu không có trung-quán, thì trở thành mâu-thuẫn, đối chọi nhau. Nhờ trung quán mới nhìn được cùng một lần cả hai khía cạnh Có và Không, mới nhận chân được rõ ràng các pháp không phải Chơn mà cũng không phải Tục, tức Chơn, tức Tục, dung thông cả hai, không có chướng-ngại. Pháp quán này sẽ trừ được vô-minh-hoặc một cách rốt ráo, cùng tột.
Ba pháp quán này có thể thực-hành bằng nhiều lối:
__Hoặc quán theo thứ lớp, hết Không đến Giả, hết Giả đến Trung. Lối quán này gọi là quán ba đế về lối cách-lịch, thứ đệ, hay về biệt-tướng, hay biệt-giáo.
__Hoặc quán theo lối thông-tướng. Theo lối sau này thì quán một đế mà ba đế đều đủ, ba tức là một. Thí dụ: quán pháp Không thời hết thảy đều Không; Giả, Trung cũng đều Không; quán pháp Giả, thời hết thảy đều Giả; Không, Trung cũng đều Giả; quán pháp Trung thời hết thảy đều Trung; Không, Giả cũng đều Trung.
__Hoặc quán theo lối Viên-dung; Viên nghĩa là đầy đủ, Dung nghĩa là dung-hòa. Theo pháp quán này, thì dùng một tâm mà đồng thời tu ba pháp quán, nghĩa là trong một tâm niệm mà ba pháp quán đều đủ và không ngăn-ngại nhau. Quán như thế gọi là “Nhất tâm tam quán”, một pháp quán của viên-giáo. Nhất tâm tam quán là pháp quán vi-diệu nhất. Nhờ pháp quán này mà hành-giả trực nhận được trong một lúc mọi khía cạnh của tâm (mà cũng tức là của vạn pháp), rõ ràng như khi chúng ta đứng soi vào gương, mà vừa nhận thấy được ánh sáng của gương (dụ cho Không), những bóng phản chiếu trong gương (dụ cho Giả); và thể tánh của chất gương (dụ cho Trung). Ba thứ: ánh sáng, bóng phản chiếu, và thể tánh của gương đều đầy đủ, đều thể hiện cùng một lúc mà vẫn viên-dung, không trở-ngại nhau. Cái lý ba đế viên-dung là đức tánh sẵn có trong mười pháp giới, không một sự vật, một pháp gì, là không viên-dung cả ba đế, cho nên thông thường gọi là: “Một cảnh ba đế”.
Hành-giả khi quán thuần-thục, sẽ đi đến kết luận sau đây:
Chân-như, Tâm, và Vật, quan hệ mật-thiết như tánh ướt, nước và sóng. Chân-như dụ cho tánh ướt, Tâm dụ cho nước, Vật dụ cho sóng. Ngoài tánh ướt không có nước, ngoài nước không có sóng. Ngoài chân-như không có Tâm, ngoài Tâm không có Vật. Chân-như, Tâm và Vật không rời nhau, mà cũng không phải là một, mà cũng không khác.
IV.- Quả Vị Tu Chứng
Như trên đã nói, do sự khám phá của “Nhất tâm tam quán”, Thiên-thai tông có một quan niệm lạc-quan về sự tu chứng. Thật vậy, khi đã nhận rõ chân-như nằm ngay trong sự vật, phàm thánh không hai, uế-độ tức tịnh-độ, thì hành-giả không cần phải cầu sanh ở một cảnh giới thanh-tịnh nào khác mới tu hành được, cũng không cần phải tu hành lâu đời lâu kiếp mới thành Phật được. Ngay trong hiện-tiền, nếu hiểu rõ được nghĩa lý của Trung-đạo và khởi công tu luyện thì cũng đã là Phật rồi. Ấy là ý nghĩa của Thiên-thai tông đã đề xướng trong chủ-trương “Lục tức Phật”.
1.- Lục tức Phật, gồm có; Lý tức Phật, Danh-tự tức Phật, Quán hạnh tức Phật, Tương-tợ tức Phật, Phần chứng tức Phật, Cứu-kính tức Phật.
- a) Lý tức Phật: Lý tức là nghĩa lý. Hiểu rõ được nghĩa lý mà đức Phật đã dạy trong câu “Chúng-sanh vốn đủ Phật-tánh, cùng các đức Như-Lai không hai không khác”, hay trong câu: “Hết thảy chúng-sanh đều là Phật”; hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.
- b) Danh-tự tức Phật: Danh-tự ở đây tức là những kinh-điển, hay những lời thuyết-pháp mà mình đã học hay đã nghe được, và đã hiểu được thông suốt rằng: “Hết thảy các pháp đều là Phật-pháp”. Danh-tự tức Phật nghĩa là lãnh-hội được lý tánh của vũ-trụ, vạn-hữu qua kinh điển, văn tự, tức là Phật.
- c) Quán hạnh tức Phật: Quán là quán tưởng. Hạnh là tu-hành, hành-động; nói một cách tổng quát: quán hạnh tức Phật nghĩa là thực-hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật.
- d) Tương-tợ tức Phật: Chữ tương-tợ ở đây có nghĩa là trong lúc mình tu-hành, tuy chưa có thể thực-chứng được lý tánh, nhưng tâm mình đã được yên-lặng, nơi lý đã mường tượng như tuồng đã chứng được, nên gọi là tương-tợ tức Phật. Đến đây tức là Phật thập-tín, thuộc về nội-phàm (phàm phu trong nội giáo).
đ) Phần chứng tức Phật: Theo Thiên-thai tông, thì vô-minh như là một tấm màn dầy đặc, gồm có 41 lớp; mỗi khi nhờ công phu tu-hành, phá được một lớp, tức là chứng được một phần trung-đạo. Đó là ý nghĩa của phần chứng tức Phật. Đến đây tức là đã lên đến các bậc Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng, Thập địa và Đẳng-giác.
- e) Cứu-cánh tức Phật: Cứu-cánh tức là đạt được bực cuối cùng, chứng được chỗ mầu nhiệm cực điểm, nghĩa là đến bực Diệu-giác, Chủng-trí đều viên-mãn. Đến đây tức là đến bực Diệu-giác hay Phật.
Chúng ta nên nhớ rằng Lục tức Phật” này có phân biệt Lý và Sự khác nhau. Về Lý thì kẻ mới bắt đầu bước lên bực thứ nhất và vị đã đến từng bực thứ sáu, đều bình đẳng như nhau, không hơn không kém, vì thể-tánh vẫn là một và mọi chúng sanh đều là Phật. Cái lý này đem lại cho hành-giả sự phấn-khởi trên đường tu-hành, không sanh lòng chán-nản, không buồn trách mình chậm thành đạo-quả mà thối tâm.
Nhưng về Sự, thì vị thứ cao thấp đều có trật tự, kẻ mới tu-hành và vị đã chứng quả Phật không thể như nhau và ngang nhau được. Người tu-hành hiểu rõ như thế mới không sanh lòng tăng-thượng-mạn, tự xưng là Phật, là Thánh trên bước đường tu-hành của mình.
Về Sự thì chỉ những vị đã đạt đến bực thứ sáu, tức là bực Cứu-cánh, mới đúng danh-nghĩa là Phật, vì chỉ có Phật mới có đủ ba Trí, ba Đức.
2.- Ba trí: Ba trí tức là Nhất-thiết-trí, Đạo-chủng-trí, và Nhất-thiết-chủng-trí.
- a) Nhất-thiết-trí: Trí này rõ biết hết thảy các pháp đều không sanh; biết rõ danh, tướng các pháp của nội tâm và ngoại cảnh, biết rõ không có ngã và ngã-sở. Trí này và các bậc tu theo Tiểu-thừa, sau khi đã chứng quả đều có được. Còn theo Thiên-thai tông thì do tu Không-quán mà có được.
- b) Đạo-chủng-trí: Trí này rõ biết nhất thiết pháp đều là Có, nhưng có một cách giả-dối, do nhân-duyên hòa-hợp mà thành. Cái trí ở trên (nhất thiết trí) chỉ thông suốt được các pháp không sanh chứ không phân-biệt được các pháp do duyên khởi. Vì không rõ được nguyên-nhân sanh khởi các pháp như thế, nên không thể dùng đạo pháp của các đức Phật để phát khởi các giống lành cho hết thảy chúng-sanh, và không dám phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh. Vậy phải có Đạo-chủng-trí này mới phá tan được trần-sa-hoặc, có tâm dũng-mãnh để cứu độ chúng-sanh. Trí này chỉ có các bậc Bồ-tát mới có được, và do Giả-quán mà thành.
- c) Nhất-thiết-chủng-trí: Trí này rõ biết được hết thảy pháp đều là trung-đạo, biết được đạo pháp của các đức Phật và hết thảy nhơn-chủng (chủng-tử khi tạo nhơn) của các loại chúng-sanh, phá tan được vô-minh hoặc, thông suốt thật-tướng của các pháp. Trí này tức là trí của Phật, do thành-tựu Trung-quán mà có.
Chứng được ba trí trên này là nhờ tu ba pháp quán: không, giả, trung. Vì ba pháp quán này có cách-lịch, viên dung khác nhau, nên khi chứng được ba trí cũng có thứ lớp và không thứ lớp khác nhau. Ba trí có thứ lớp, nghĩa là thành-tựu tuần-tự từ Nhất-thiết trí, đến Đạo-chủng trí, cuối cùng đến Nhất-thiết-chủng trí.
Ba trí không thứ lớp tức là ba trí đồng thời thành-tựu, do tu pháp “nhất tâm viên quán”.
Đoạn văn sau đây, trong bộ Ma-ha-chỉ quán có thể tóm tắt một cách đầy đủ ý nghĩa của ba trí nói trên:
“Trí-huệ Phật soi rõ lý Không, như chỗ nhận thấy của bực Tiểu-thừa, gọi là Nhất-thiết trí. Trí-huệ Phật soi rõ lý Giả, như sự nhận thấy của các bực Bồ-tát, gọi là Đạo-chủng trí. Trí-huệ soi rõ cả lý Không, Giả, Trung, thông-suốt thật tướng các pháp, gọi là Nhất-thiết-chủng trí…Ba trí do một tâm đồng thời tu ba pháp quán mà thành, biết rõ ba cảnh bất-tư-nghị, trí ấy do tu quán mà đặng, nên gọi là trí. Trí ấy cũng tức là Phật-trí”
3.- Ba đức: Kết-quả tu chứng của Thiên-thai tông, không phải chỉ có được ba Trí mà còn được ba Đức nữa. Chữ “Đức” ở đây không phải hiểu theo nghĩa thông-thường ở thế-gian, mà là Đức của cảnh-giới Niết-bàn, nghĩa là có đầy đủ thường, lạc, ngã, tịnh. Ba đức ấy là:
- a) Đức Pháp-thân: Pháp tức là khuôn phép đúng với chơn-tướng của vũ-trụ. Các đức Phật nhờ nương theo khuôn phép ấy mà tu-hành thành Phật, thể chứng được chơn-tướng vũ-trụ, cho nên gọi là pháp-thân.
- b) Đức Bát-nhã: Tức là cái sáng suốt về thỉ-giác của Phật, rõ biết các pháp không sanh không diệt, vắng lặng siêu hình, một mực bình-đẳng, không thêm không bớt.
- c) Đức Giải-thoát: Giải là không bị ràng buộc; Thoát là vượt ra ngoài, là tự-tại vô-ngại. Ở đây muốn nói các đức Phật đã lìa bỏ các phiền-não nghiệp-chướng ràng buộc, chứng được cảnh giới đại tự-tại, Giải-thoát vậy.
V.- Kết Luận
Bốn phần trình-bày trên này về Thiên-thai tông (duyên khởi lập tông, tôn-chỉ và giáo-lý căn-bản, phương-pháp tu-hành, và quả-vị tu chứng) tuy không nói lên được một cách tỉ-mỉ về mọi khía cạnh của tông, nhưng thiết-tưởng cũng đem lại cho quý vị độc-giả một ý niệm tổng-quát về Thiên-thai tông, một tông đặc-biệt thành lập ở Trung Hoa và đã lan-tràn ảnh-hưởng sang các nước Mông-Cổ, Nhật-Bản, Cao-Ly và Việt-Nam.
Điểm đặc sắc của tông này chính là ở pháp”nhất tâm tam quán”. Nhờ ba pháp quán này mà hành-giả nhận chân được một cách rõ-ràng ba khía cạnh của vũ-trụ vạn hữu: Vật, Tâm và Chân-như. Ba thứ ấy dụ cho sóng, nước, và tánh ướt. Ba thứ ấy không rời nhau, cũng không phải là một mà cũng không phải là khác và vẫn dung-thông nhau, cùng nhau hòa-hiệp: Có một tất có cả ba, cả ba nhưng có thể quy về một; nếu đứng về phương-diện “sóng” mà xét, thì nước cũng là sóng mà tánh ướt cũng là sóng’ nếu đứng về “nước” mà xét, thì sóng cũng là nước, mà tánh ướt cũng là nước; nếu đứng về phương-diện “tánh ướt”, thì sóng cũng là tánh ướt, mà nước cũng là tánh ướt. Nếu góp cả ba phương-diện mà xét, thì ba phương-diện có thể quy về một, nếu đứng về một phương diện mà xét, thì vẫn có thể thấy cả ba. Đó là ý-nghĩa sâu-sắc của Thiên-thai tông mà cũng tức là lý nghĩa chung của Viên-giáo.
Mong rằng quý độc-giả sẽ nghiên-ngẫm cho thấu-đáo, để nhận rõ được cái lẽ “tam tức nhứt, nhứt tức tam” ấy. Và như thế tức cũng đi dần vào pháp “nhứt tâm tam quán” rồi đó.