Cuộc đời này, biết bao người đã thua ở một chữ: ĐỢI


Tại một ngôi chùa cổ ở Nhật Bản, có một cậu bé mới 9 tuổi tên
là Thân Loan (sau này là người sáng lập Chân Tông tịnh độ), quyết
định xuất gia, đi tìm thiền sư để xuống tóc.
Khi gặp được, thiền sư đã hỏi ông rằng:
“Con còn nhỏ thế này tại sao đã muốn xuất gia?”.
Lúc đó Thân Loan trả lời:
“Năm nay mặc dù cháu mới 9 tuổi nhưng bố cháu đã qua đời,
cháu không biết vì sao con người phải chết, vì sao cháu và bố cháu
phải rời xa nhau. Vì thế để hiểu được đạo lý này, cháu nhất định
phải xuất gia”.
Vị thiền sư nói:
“Được! Ta hiểu rồi. Ta đồng ý nhận con làm đồ đệ, nhưng hôm
nay muộn rồi, chờ đến sáng sớm mai ta sẽ xuống tóc cho con!”
Thân Loan nghe xong liền nói:
“Thưa sư phụ, mặc dù sư phụ nói là chờ đến sáng sớm mai sẽ
cắt tóc cho con, nhưng con còn nhỏ, con không dám chắc quyết tâm
đi tu của con có còn giữ được đến sáng mai không. Mà sư phụ thì
đã nhiều tuổi thế này rồi, sư phụ có dám chắc sáng mai tỉnh dậy
sư phụ vẫn khỏe mạnh không?”
Vị thiền sư nghe xong liền nói:
“Tốt, tốt! Con nói rất hay! Những gì con nói đều đúng, ta sẽ
xuống tóc cho con ngay bây giờ”.
Vạn vật của thế giới luôn nằm trong sự biến đổi không ngừng
nghỉ. Con người cũng vậy, không ai biết được tương lai sẽ ra sao?
Ngày mai cũng không chắc chuyện gì sẽ đến, có những biến cố bất
ngờ trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn cũng có thể khiến ta
mất đi ngày mai vĩnh viễn.
Vì vậy ngày hôm nay, khi ta muốn làm một điều gì đó hãy bắt
tay làm, đừng chờ đợi. Xưa nay, có biết bao nhiêu người thua bởi
một chữ “ĐỢI”:

  • Đợi đến một ngày nào đó,
  • Đợi tương lai,
  • Đợi đến khi hết bận,
  • Đợi lần sau,
  • Đợi khi có thời gian,
  • Đợi khi có điều kiện,
  • Đợi khi có đủ tiền,
  • Đợi cho đến khi không còn duyên phận,
  • Đợi đến khi thời thanh xuân trôi qua,
  • Đợi đến khi không còn cơ hội,
  • Đợi đến khi không còn lựa chọn…
    Chẳng ai biết trước được tương lai sẽ ra sao, có nhiều việc đợi sẽ
    thành mãi mãi…
    Khi đã quyết tâm làm việc gì thì hãy làm ngay. Đừng ĐỢI

NGƯỜI CON MÙ CỦA VUA A-DỤC


Hai trăm năm sau ngày Phật Cồ-đàm nhập diệt, một viên tướng tên là Adục
(Ashoka) nắm quyền lãnh đạo Ấn Độ. Là một vị vua đầy uy quyền, ông
thống nhất sứ xở chia năm xẻ bảy, cho xây đường xá, đào giếng, bệnh viện
nhà nghỉ và nhất là bảo tháp, đền miếu, mà ngày nay người ta vẫn còn xem
là một trong những công trình to lớn của con người.
Mới đầu A-dục vương là một con người hiếu chiến, nhưng về sau ông
được một Tăng sĩ Phật giáo khuyên nên theo chủ trương hòa hiếu, bất bạo
động. Nhà vua gặp vị Tăng sĩ này lần đầu trên đường đầy bụi bặm và thấy
xót thương. Nhưng khi tới gần, ông nhận ra ánh sáng an tịnh trên khuôn
mặt vị tu sĩ, và ông thấy nơi người du khất này một cái gì mà một Quốc
vương như ông tìm kiếm lâu ngày chưa được.
A-dục gia nhập Giáo hội và bắt đầu thiền định. Ông đi sâu vào giáo lý
của Phật và nhiều lần hành hương đến thăm cây Bồ-đề tại Giác Thành, một
gốc cây Thánh vì đây là nơi Phật Cồ-đàm thành đạo.
Trước đó không lâu, vua A-dục lấy vợ, nàng tên là Tisja Rakscha. Vị
hoàng hậu này không vui khi thấy nhà vua cứ đến tham vấn Tăng đoàn,
không quan tâm đến nàng. Tisja Rakscha cảm giác bị bỏ bê và ghen tức đến
mức nàng sai cận thần ghi chép giờ giấc nhà vua đến Giác Thành bao nhiêu
và thời gian dành cho nàng bao nhiêu.
Cuối cùng khi so sánh, nàng giận dữ tới mức sai cận thần cho đốn chặt
cây Bồ-đề. Cây đó bị chặt thật nhưng lạ lùng thay, qua ngày mai nó lại mọc
lên như cũ.
Sau đó Tisja tìm mọi cách quyến rũ người con trai lớn của A-dục. Thái tử
Kunala là con ghẻ của nàng và là người thừa kế ngôi cha. Nhưng Kunala biết
rõ âm mưu của nàng nên thẳng thừng từ chối. Vị hoàng hậu trẻ tuổi hậm
hực và quyết báo thù hai cha con.
Nhân dịp nhà vua lại đi thăm đền ở Giác Thành, hoàng hậu âm mưu với
triều đình bắt tội Kunala nhốt vào ngục, bộ hạ của nàng lẻn vào ngục khoét
mắt chàng. Không ai cứu chàng kịp, chàng trở thành mù lòa.
Trong cơn tuyệt vọng, chàng nhớ lời một vị hiền nhân đã già nói cách đó
nhiều năm: “Không có gì trên đời này là thường hằng. Bất cứ điều gì ngươi
sẽ có, rồi nó cũng sẽ mất. Vì vậy hãy giữ những gì mà ngươi là, và lúc đó
những cái mất lớn nhất sẽ trở thành những cái được lớn nhất”.
Cai ngục lấy mất ánh sáng của mắt chàng thì ngay lúc đó ánh sáng trí tuệ
bùng lên và Kunala thấy tất cả sự vật đúng như chúng là, vượt ra ngoài
thông thường cảm nhận của thế gian. Bây giờ chàng biết vị hiền nhân nọ đã
biết trước số phận của chàng nhưng không ra tay cứu giải.
Càng lúc, Kunala càng đi sâu vào thế giới bên trong và để mặc cho trời
đất muốn xử sao với người có tội cũng được. Chàng không cần khai báo gì
cả vì A-dục không bao lâu sau đã biết ai là người gây tội khoét mắt con mình
và cho Tisja Rakscha hưởng hình phạt xứng đáng.
Kunala rời bỏ ngai vàng và nhường ngôi cho con trai làm vua Ấn Độ. Sau
đó ông rút vào rừng miền Tây Bắc, sống như một tu sĩ và an nhiên tu tập
thiền định.
Cuối cùng, chàng đối trị được lòng sân hận luôn luôn quay trở về trong
tâm và hoàn toàn xả bỏ. Rồi cũng tới ngày mà chàng cảm tạ Tisja Rakscha về
hành động xấu ác đó, vì cũng nhờ đó mà chàng mở được con mắt trí tuệ và
lên ngôi vua của sứ xở nằm ngay trong tâm mình.
Từ một con người mù loà Kunala đã sinh ra một bậc A-la-hán có thiên
nhãn, một bậc hiền nhân. Vô số con ngưòi đã tìm được an ủi và sự cứu độ
với vị đó.
Trích “SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH”
Nguyễn Tường Bách dịch.

ĂN CƠM CHÙA


Ông bà mình ngày xưa dạy rồi, học ăn xong rồi mới học nói, hay là
nhập gia tùy tục. Cho nên khi đi đến chỗ nào, nơi nào lạ lạ thì mình
dành chút thời gian quý báu ra để hỏi han, hay tinh mắt hơn là để ý,
bắt chước người ta làm kiểu gì thì mình làm theo. Chứ để một mình
một kiểu, nói theo kiểu xì tin là “mẹ thiên hạ” thì không có được.
Cái chuyện ăn là cái vấn đề muôn thuở, ở đâu cũng có những quy
tắc và nghĩ lễ riêng. Mỗi nước mỗi khác, mỗi dân tộc mỗi khác, mỗi
nhà mỗi khác. Cách ăn của Việt Nam nó khác với cách ăn của Nhựt
Bổn, cách ăn của người Kinh khác với người đồng bào, cách ăn của
dân quê khác với cách ăn của thành thị, cách ăn ngoài xã hội khác với
cách ăn trong chùa. Nên khi đi chùa mình để ý một chút hay cố gắng
chậm lại một nhịp để thấy người ta làm rồi bắt chước đặng nhìn vô nó
thấy đẹp, người ta kêu Phật tử chùa này dễ thương. Bởi mấy này chỉ
có trong Luật xuất gia mới ghi, Phật tử không được tìm hiểu nhiều nên
nhiều khi góp ý cũng ngại, mà không góp ý thì ngó hổng ưng cái bụng.
Khi tới giờ cơm, mấy chùa thường đánh bảng hay kiểng, miễn là cái
gì kêu thành tiếng để người ta biết tới giờ cơm mà tới. Nên khi tới
chùa làm công quả, nghe tiếng gõ thì tới ngay nhà ăn giùm, đừng giả
lơ như nai vàng ngơ ngác, cho mình đẹp mà bị điếc rồi đợi người ta
lên mời, phiền người ta, tội lắm. Có mấy bạn cũng dễ thương, cứ nghĩ
chuông bảng kêu là tới giờ ăn, mà khổ nỗi, một ngày chuông bảng chùa
kêu cả chục lần tùy vào giờ giấc và công việc, vậy mà cứ nghe tiếng
kêu là chạy xuống bếp, xuống rồi không thấy đồ ăn, rồi hờn, thấy cuộc
đời lừa nhau quá, tới chùa cũng không tha.
Vô bàn cơm rồi, thường thì mấy chùa người xuất gia theo thứ tự
ngồi từ trên xuống, lần lượt mới tới Phật tử ngồi sau cùng, hay có
không gian hơn thì Tăng, tục có bàn ăn riêng. Vậy nên khi vô ngồi, làm
ơn để ý thấy các vị xuất gia ngồi trên rồi thì nhẹ nhàng khiêm tốn ngồi
dưới, chớ đừng có ỷ mình quen với thầy này cô này nên ngồi chen
ngay giữa, kỳ lắm. Có mấy vị làm chức này chức kia, giám đốc hay gì,
vô cứ muốn ngồi trên chỗ trụ trì. Tùy vào mỗi vị trụ trì có cho phép
hay không thôi, chứ lớn ở đâu thì vô chùa cũng là người đến học đạo
hết, nên cố gắng hạ mình xuống chút. Xác định chỗ ngồi xong thì xá
thầy trụ trì, mặc dù không biết ai trụ trì thì cứ nhìn vô cái ghế cao nhất
mà xá, không có thầy ngồi cũng xá, đó là cái lễ, mình vô nhà người ta
mà không chào thử, coi được không.
Ở nhà mà có ham ăn hố uống thì vô chùa cố bớt bớt lại, ngồi xuống
rồi, xoa xoa cái tay chép chép cái miệng, cầm đũa gắp tới tấp không để
ý xung quanh là chúng sinh họ dập. Ngước nhẹ lên trên thấy các vị
xuất gia ăn rồi mình mới được ăn. Trước khi ăn nhớ chắp tay lại, nhìn
chén cơm cúi nhẹ cái đầu xuống, hổng biết niệm cái gì thì nhìn cơm
cười cũng được. Thật đấy. Không ai chửi mình khùng đâu. Xá chén
cơm có 3 ý nghĩa lận.

  • Thứ nhất là tạ ơn Đức Phật, nhờ có ân đức của Phật mình mới có
    chén cơm này, mới có người tới cúng gạo cho mình ăn, chớ mình
    phước đức đâu mà họ cúng.
  • Thứ hai, là cảm niệm công lao của người nông phu cất công gieo
    trồng, cày cấy ngoài ruộng để có ra đây cho mình hạt gạo, nhớ
    luôn tới con trâu hay cái máy cày, có nó mới có gạo cho mình ăn.
  • Thứ ba là cảm ơn công sức người đã nấu cho mình bữa cơm này,
    có thể hy sinh một ngày tu tập, một ngày buôn bán để vô chùa
    nấu cho mình ăn, nên phải trân trọng.
    Xá trước khi ăn cơm là ý nghĩa vậy, còn nhiều ý nghĩa nữa lắm, đại
    khái là vậy. Đừng nghĩ chùa làm mấy việc ruồi bu, chén cơm mà cũng
    xá, coi chừng 0 điểm về chỗ.
    Thường thì người ta hay dọn một đôi đũa với một cái muỗng, đũa
    thì gắp miếng đậu hủ bỏ vô chén, muỗng thì xắn miếng đậu ra làm đôi
    kèm thêm ít cơm bỏ vô miệng. Chứ đừng quen tay theo kiểu cơm gia
    đình, lấy đũa gắp rồi thò vô miệng, mút cái chụt rồi thò ra gắp tiếp.
    Mấy người xung quanh họ xỉu hết, ăn ở sạch sẽ còn đỡ, lỡ mình hôi
    miệng hay bị bệnh gì dễ lây người ta ngại, ăn không được, họ đói mình
    mang tội. Thử tưởng tượng mình là người ăn sau, bưng đồ ăn thừa
    xuống, trong đó có mấy hột cơm còn sót lại, dám ăn không
    Khi ăn thì giữ chánh niệm, nôm na là tập trung chuyên môn, đừng
    nói chuyện. Lỡ cười, sặc, ngồi ăn với thầy mà không ho được thì khó
    chịu lắm. Ví dụ trong chén lỡ có thấy cọng tóc dài thì cũng im lặng kéo
    ra rồi ăn tiếp, đừng có dơ lên hỏi tóc này của thầy hay Phật tử thì xong,
    coi chừng lần sau không được ăn cơm chùa nữa. Hỏi nhiều không chết,
    hỏi ngu mới chết.
    Trong bàn ăn thấy Thầy hay vị lớn nhất mà không nói chuyện thì
    cũng đừng nói, chứ ở trên ai cũng im ru, mình là nhỏ mà nói chỏng lên
    hay một mình mình nói thì không được, đó gọi là vô lễ. Có mấy chùa,
    ngồi ăn với Sư phụ mà mấy chú xuất gia cứ nói thao thao, không thèm
    để ý sư phụ có nói hay không, nói to nữa chứ, không ai nói mình cũng
    nói, mấy chú thì đùa giỡn, đó gọi là hỗn, ngồi trên mà không nghiêm
    thì sao nói Phật tử.
    Còn nữa, khi ăn mà người ta bưng thức ăn lên chưa kịp thì cũng
    hoan hỷ, chứ có mấy vị, thấy người ta vừa bưng đồ ăn tới là nhảy lên,
    bàn này, bàn này, để bàn này nè em, là chết. Cho dù có thèm món đó
    tới mức nào cũng phải giả bộ ta đây không thèm, có thì ăn, không thì
    thôi, quan trọng là thần thái, chứ thái độ mà chợ quá thì không được.
    Còn một chuyện nữa hầu như là ai cũng mắc phải. Đó là văn hóa
    gắp đồ ăn, có thân thiết tới mức độ nào cũng không được gắp đồ ăn
    cho người khác. Bởi mình có biết người ta thích ăn cái gì đâu mà gắp.
    Lỡ như họ đang trong chế độ kiêng cữ món đó hay kiêng kỵ thì mình
    thành người vô duyên, hổng lẽ họ gắp ra, nên phải ăn, mai mốt họ để
    ý mình ăn cái gì không được, họ gắp, đừng có thù. Trừ khi trường hợp
    có mấy món ở xa họ gắp không tới thì mới gắp giùm, mà cũng gắp ít
    ít, đừng bày đặt gắp nhiều tỏ vẻ thành ý, họ ăn không hết, cũng thù.
    Vá cơm hay vá canh múc xong rồi, lật út cái mặt nó xuống, nhìn
    thẩm mỹ biết bao nhiêu. Chứ múc xong thả trôi lềnh bềnh trên mặt
    nhìn chợ gì đâu, người ta quánh giá bổn thân mình. À quên, đang ăn
    thì đừng có gãi đầu hay vuốt tóc, sạch sẽ không sao, xui xui ở dơ không
    gội đầu hay có chí, gãi đầu một cái gàu rơi như sương mù Đà Lạt, nhìn
    cũng đẹp mà dơ. Hay lỡ có gió gàu bay qua chén người khác kèm thêm
    con chí, người ta không biết ăn vô, thấy mặn, kêu cơm chùa nấu lạ,
    cơm mà bỏ muối.
    Ăn xong thì xếp đôi đũa lại cho bằng nhau, đặt lên miệng chén hay
    xuống bàn tùy nơi, gác cái muống nhẹ nhẹ kế bên ra dấu là ăn xong
    rồi. Nếu có giấy lau miệng, lau nhẹ chấm chấm thôi, đừng dằn vặt bờ
    môi mình, lau xong xếp lại như cũ, vuông vức, ta kêu mình có văn hóa.
    Nhất là cái tăm, xỉa răng thì lấy tay che miệng lại, chứ vừa cười vừa
    xỉa răng, móc ra thấy cọng rau, kê lên hửi rồi bỏ vô miệng nhai tiếp,
    thấy ghê. Xỉa xong thì bẻ cây tăm làm đôi, chớ xỉa xong để nguyên,
    người ta tưởng chưa, xài lại, mốt ung thư răng cả chùa.
    Còn chi tiết nhỏ nữa là ăn xong lỡ chân đứng dậy rồi thì đi luôn,
    đừng đứng lên rồi, chặp sau thấy có món mới bưng lên, ngồi xuống ăn
    tiếp, người ta biểu mình phàm ăn. Tốt nhất là ăn một lần thôi, ai mời
    nữa giả bộ kêu no, vậy cho sang, chứ đừng ai rủ cũng ăn, đó gọi là mâm
    nào cũng có, mất hình tượng. Ăn xong trước khi đứng dậy nhớ chắp
    tay lại xá, xá thầy trụ trì rồi mới đi, có đầu có đuôi, vậy mới đẹp. Ngồi
    ăn chung một bàn lỡ mâm mình không có món kia thì cũng thôi, đừng
    có với qua mâm người khác. Gặp mấy người khó khó, đặc biệt là miền
    Trung người ta kêu ăn lắm mâm thì lắm lời, chưa kể với tay đứng dậy
    gắp, bị viêm cánh coi như xong. Tội người ta, đi chùa bị ung thư mũi.
    Còn nữa, ai mà có quan niệm ăn cơm chùa bị mắc nợ là bỏ liền, ngay
    và lập tức. Không biết từ đâu mà có cái tư tưởng kỳ quá. Nói vậy thôi
    chứ mấy người tu nợ trả chừng nào cho hết, người ta cũng hết dám vô
    chùa ăn cơm. Đúng ra mà nói, hạt gạo là do người dân khắp nơi đến
    cúng, nói cho hay là bá tánh thập phương cúng dường, nên mình ăn
    hạt gạo này là kết duyên lành với họ trong ngôi nhà Phật pháp, để sau
    này có duyên gặp nhau mà tu hành, người cúng gạo cũng đừng mang
    tâm chỉ cúng cho mấy vị xuất gia ăn, mà phải nghĩ đây là cơ hội gieo
    nhân duyên gặp gỡ nhiều người trong tương lai, cùng nhau mà tu tập,
    phước vậy mới có.
    Còn rất rất nhiều điều muốn nói nữa mà sợ viết dài rồi người đọc
    cũng thấy sân si, kêu viết bài góp ý mà dài như quỷ. Thôi thì mình là
    Phật tử đến chùa, cái gì chưa biết thì học từ từ, cũng không ai trách
    đâu. Việc ăn uống là thể hiện văn hóa và tư cách của mỗi con người
    nên cũng dè chừng mà kiểm điểm, để lại hình tượng tốt trong lòng
    người khác thì mình cũng dễ sống, để đi đâu cũng mang tiếng ham ăn
    hố uống, thần thái không sang thì coi như xong. Bài sau kiếm chủ đề
    khác để viết, chứ góp ý hoài người ta cũng sợ, riết rồi không ai dám
    đọc bài mình, mình cũng đã tốt hơn ai đâu, chẳng qua kiếm chuyện
    viết cho Phật tử đi chùa càng ngày càng đẹp hơn, oai nghi đẹp, hành
    xử đẹp, và quan trọng… là thần thái.
    MỘC TRẦM